Thực trạng nhu cầu tin và công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Status of Information Demand and Information Assurance at the Information and Library Center of Hanoi University of Industry

Nguyễn Thị Thanh Thủy, Đỗ Thị Thanh Lương,

Vũ Thị Thu Hiền, Trần Thị Anh Đào,

Đặng Quang Thạch, Nguyễn Thị Tâm,

Nguyễn Thị Nguyệt Minh.

Trung tâm Thông tin Thư viện, Trường ĐHCNHN

Email: thanhthuy79.dhcnhn@gmail.com

TÓM TẮT

Bài báo nghiên cứu thực trạng Nhu cầu tin và đánh giá thực trạng hoạt động Thông tinThư viện ở trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, trên cơ sở đó nắm bắt được khả năng đáp ứng nhu cầu tin của người dùng tin tại Thư viện, từ đó đề xuất những giải pháp tối ưu nhằm tăng cường hoạt động Thông tinThư viện, thỏa mãn nhu cầu thông tin tư liệu của thầy và trò, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và đổi mới phương pháp đào tạo của Nhà trường.

Từ khóa:nhu cầu tin;đảm bảo thông tin; Đại học Công nghiệp Hà Nội

ABSTRACT

The paper examines the current state of information demand and assesses the current state of information and library activities at Hanoi University of Industry, thereby capturing the ability to meet the demand for information of users at the library, from which it proposes optimal solutions to enhance information and library activities, satisfy the information demand of teachers and students, contributing to improving the quality of training and renovation of training methods of the university.

Keywords:information demand; information assurance; Hanoi University of Industry

1. GIỚI THIỆU

Trong các nguồn lực phát triển xã hội, thông tin được coi là nguồn tài nguyên quan trọng nhất. Thông tin là tri thức, là sức mạnh và là bí quyết góp phần định hướng đúng, giúp lãnh đạo quản lý ra các quyết định chính xác hơn. Mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều liên quan tới thông tin.

Nhu cầu tin là đòi hỏi khách quan của con người (cá nhân, nhóm, xã hội) đối với việc tiếp nhận và sử dụng thông tin để duy trì hoạt động sống. Khi đòi hỏi về thông tin trở lên cấp thiết thì nhu cầu tin xuất hiện. Nhu cầu tin là nhu cầu của con người, là một dạng của nhu cầu tinh thần, nhu cầu bậc cao của con người. Nhu cầu nảy sinh trong quá trinh thực hiện các loại hoạt động khác của con người, thông tin về đối tượng hoạt động, về môi trường và các phương tiện hoạt động là yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả hoạt động của con người. Bất kỳ hoạt động nào muốn có kết quả tốt thì cũng cần phải có thông tin. Mọi người càng tham gia nhiều hoạt động khác nhau thì nhu cầu tin của con người càng phong phú hơn, tham gia hoạt động phức tạp thì nhu cầu tin càng trở lên sâu sắc hơn.

Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội với lịch sử gần 120 năm hình thành và phát triển không những là chiếc nôi đào tạo ra các thế hệ cha ông như: đ/c Hoàng Quốc Việt, ủy viên bộ chính trị - Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, đ/ Nguyễn Thanh Bình, ủy viên Bộ chính trị - Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam...mà còn từng ngày đóng góp vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới đất nước. Trung tâm Thông tin - Thư viện là một đơn vị sát cánh cùng trường trong những ngày đầu thành lập, phát triển cùng với sự phát triển chung của nhà trường và được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo mà nay trung tâm đã có một cơ ngơi khanh trang, rộng rãi và hiện đại. Số lượng người dùng tin ngày càng tăng, chất lượng thông tin ngày càng cao đòi hỏi trung tâm phải có một chiến lược phát triển hợp lý nhằm đảm bảo nguồn thông tin chuẩn xác, kịp thời cho bạn đọc, chính vì vậy mà công tác đảm bảo thông tin tại trung tâm Thông tin - Thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội được đặt lên hàng đầu.Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được thì việc đảm bảo nhu cầu tin và công tác đảm bảo thông tin cho người dùng tin tại Trung tâm Thông tin - Thư viện của trường còn tồn tại một số hạn chế. Nghiên cứu này tập trung phân tích, đánh giá thực trạng nhu cầu tin, hệ thống về vị trí, tầm quan trọng và vai trò của công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin -Thư viện trong việc nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN

Công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện ngày càng được các cơ quan Thông tin Thư viện quan tâm và nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập tới vấn đề này ở những khía cạnh khác nhau, liên quan đến hoạt động thông tin thư viện trong các trường đại học nhằm mục tiêu dáp ứng nhu cầu tin, đảm bảo thông tin cho người dùng tin có các công trình như: “Nghiên cứu nhu cầu hứng thú đọc tài liệu của bạn đọc tại Thư viện Trung ương Quân đội” của Nguyễn Thị Phương Nhung; Hoàng Thị Thu Hương (2005), “Nghiên cứu nhu cầu tin và giải pháp đảm bảo thông tin tại Trung tâm tin học Bộ thuỷ sản”, Luận văn thạc sỹ Khoa học Thư viện, Đại học Văn hoá Hà Nội. Liên quan tới Trung tâm Thông tin Thư viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội có một số bài viết sau: “Nghiên cứu nhu cầu tin và đảm bảo thông tin cho người dùng tin tại Trung tâm Thư viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội” của Đỗ Thị Thanh Lương; “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển văn hóa đọc của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội” của Nguyễn Thị Thanh Thủy. Tuy nhiên, các đề tài trên mới chỉ đề cập tới các khía cạnh mang tính đặc thù của cơ quan, đơn vị nơi tác giả công tác mà chưa có điều kiện nghiên cứu một các tổng thể về công tác đảm bảo thông tin nói chung trong khi đó mỗi cơ quan đều có nét đặc thù về điều kiện và ảnh hưởng riêng.Từ các quan điểm trên, về cơ bản, trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn đối tượng khảo sát là người dùng tin tại thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, để nghiên cứu phân tích về:(i)đặc điểm người dùng tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện; (ii)nhu cầu tin của người dùng tin ở Trung tâm Thông tin Thư viện; (iii) thực trạng công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện.

3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính, tác giả tổng quan các nghiên cứu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, thu thập dữ liệu thứ cấp. Đồng thời, sử dụng kết hợp phương pháp điều tra khảo sát bằng bảng hỏi, phỏng vấn trực tiếp, thống kê tài liệu và tổng hợp, phân tích.Khảo sát được tiến hành điều tra thông qua phiếu thăm dò. Số phiếu được gửi theo cơ cấu sau: mỗi khoa:100 phiếu (trong đó 1/3 phiếu dành cho cán bộ giảng dạy và ngiên cứu; 2/3 số phiếu còn lại dành cho học sinh,sinh viên); mỗi trung tâm: 50 phiếu (trong đó 1/3 phiếu dành cho cán bộ giảng dạy; 2/3 số phiếu còn lại dành cho học sinh, sinh viên). Số phiếu gửi đi: 1750 phiếu, Số phiếu thu về: 1375 phiếu (đạt 78,5%). Trong đó: 75 phiếu lãnh đạo quản lý, tổ chuyên môn (chiếm 6%); 375 phiếu nhóm cán bộ giáo viên (chiếm 27%); 925 phiếu của nhóm học sinh, sinh viên (chiếm 67%). Trên cơ sở tổng số phiếu điều tra thu về, tôi đã tiến hành thống kê, phân tích và đánh giá, kết hợp với hoạt động thực tiễn của Trung tâm để tìm ra giải pháp tăng cường công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội.

4. KẾT QUẢ

Đặc điểm người dùng tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện

Người dùng tin tại thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội bao gồm các cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ, nghiên cứu giảng dạy, học sinh, sinh viên. Người dùng tin dù là cá nhân hay tập thể cũng đều tiếp nhận và sử dụng thông tin phục vụ cho công tác chuyên môn, nâng cao kiến thức của mình. Người dùng tin luôn bị ảnh hưởng bởi sự phát triển kinh tế-xã hội, vì vậy, quá trình đổi mới kinh tế xã-hội đã tác động sâu sắc đến nhận thức của đội ngũ những người tham gia công tác giáo dục và nghiên cứu khoa học của Trường.

Trên cơ sở xem xét nhu cầu thông tin và hoạt động công tác, học tập và nghiên cứu của người dùng tin, chúng tôi chia người dùng tin tại thư viện trường thành 3 nhóm: Nhu cầu tin của cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nhu cầu tin của nhóm cán bộ, nghiên cứu giảng dạy; Nhu cầu tin của nhóm học sinh, sinh viên.

Thực trạng nhu cầu tin và công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Hình 1. Thành phần người dùng tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội

Nguồn: nhóm tác giả thống kê thông qua phiếu điều tra nhu cầu tin

Nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý chiếm 6% trong tổng số người dùng tin nhưng đây là những người đóng góp vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển của trường. Đội ngũ này gồm Ban giám hiệu, cán bộ lãnh đạo Đảng, đoàn thể, Trưởng, Phó các khoa, Phòng, Trung tâm, Công ty…Họ vừa là khách thể, vừa là chủ thể của thông tin trong trường. Các cán bộ lãnh đạo vừa mang chức năng quản lý, vừa thực hiện xây dựng chiến lược phát triển của Nhà trường. Chính vì thế thông tin phục vụ họ phải là những thông tin mang tính tổng hợp và chính xác cao.

Nhu cầu tin của nhóm này rất phong phú, đa dạng. Một phần cán bộ lãnh đạo, quản lý tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học, vì vậy ngoài những thông tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của Bộ Công Thương… cần thiết cho công tác lãnh đạo thì nhu cầu tin của nhóm người này cũng chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên môn mà họ phụ trách. Hình thức phục vụ thường là cung cấp các thông tin chuyên đề, tổng quan, tổng luận, các bản tin nhanh, vắn…với các phương pháp phục vụ đa dạng, linh hoạt theo từng yêu cầu và tình huống cụ thể.

Nhóm cán bộ nghiên cứu, giảng dạy chiếm 27%. Đây là nhóm có trình độ chuyên môn và trình độ ngoại ngữ, tin học cao. Họ là người chuyển giao tri thức, kiến thức cho học sinh, sinh viên, là những người tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo của Trường. Vì tham gia giảng dạy nên họ thường xuyên phải cập nhật kiến thức chuyên ngành mới, bổ xung những kiến thức về khoa học, xã hội trong thời kỳ mới. Cán bộ giảng dạy là những người “truyền lửa” cho sinh viên, kich thích quá trình sáng tạo, giúp các em hăng hái trong học tập và nghiên cứu. Do vậy, thông tin phục vụ cho nhóm này là thông tin chuyên sâu, có tính thời sự, có tính lý luận và mang lại thực tiễn cao với các ngành như: Kinh tế, Thời trang, Điện tử, Công nghệ thông tin, Du lịch…Hình thức phục vụ thường là cung cấp các thông tin chuyên đề, chọn lọc, thông tin tài liệu mới… về các chuyên ngành, các tạp chi khoa học nước ngoài. Các cơ sở dữ liệu, các tài liệu điện tử.

Nhóm học sinh, sinh viên chiếm 67% nhóm này bao gồm: Sinh viên chính quy, sinh viên vừa học vừa làm và liên thông, cao đẳng và trung cấp. Đây là nhóm người dùng tin đông đảo, nhu cầu của họ rất lớn. Việc đổi mới phương pháp dạy học từ Niên chế sang tín chỉ đã khiến nhóm này ngày có nhiều biến chuyển về phương pháp học tập. Hiện nay, phương pháp tự học, tự nghiên cứu đang được chú trọng, do vậy cần rất nhiều tài liệu, thông tin trong quá trình được đào tạo.Tùy theo chuyên ngành theo học mà những thông tin, tài liệu cần phải phù hợp với nhu cầu cũng như cấp học của nhóm này. Hình thức phục vụ chủ yếu là thông tin phổ biến về tri thức cơ bản dưới dạng sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo.

Nhu cầu tin của dùng tin ở Trung tâm Thông tin Thư viện

Nhu cầu tin là đòi hỏi khách quan của con người (cá nhân, nhóm, xã hội) đối với việc tiếp nhận và sử dụng thông tin để duy trì hoạt động sống. Khi đòi hỏi về thông tin trở lên cấp thiết thì nhu cầu tin xuất hiện. Nhu cầu tin là nhu cầu của con người, là một dạng của nhu cầu tinh thần, nhu cầu bậc cao của con người. Nhu cầu nẩy sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động khác của con người, thông tin về đối tượng hoạt động, về môi trường và các phương tiện hoạt động là yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả hoạt động của con người. Bất kỳ hoạt động nào muốn có kết quả tốt thì cũng cần phải có thông tin.

Nhu cầu sử dụng thông tin theo dạng tài liệu: Trước đây, các dạng tài liệu truyền thống như sách, báo, tạp chí…được sử dụng khá nhiều, còn các loại tài liệu hiện đại hơn như các cơ sở dữ liệu, CD-ROM hầu như không có. Tuy nhiên, hiện nay, khi khoa học và công nghệ phát triển, sự thay đổi của các ứng dụng hiện đại vào đời sống con người thì nhu cầu thông tin cũng thay đổi theo hướng đa dạng hơn, yêu cầu đặt ra đối với tất cả các cơ sở cung cấp thông tin là phải nâng cấp trang thiết bị hiện đại, cải tiến chất lượng phục vụ, nâng cao trình độ cán bộ trong Trung tâm nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của người dùng tin. Dần dần, các nhu cầu về tài liệu truyền thống ngày càng giảm, thay vào đó là nhu cầu đối với các dạng tài liệu hiện đại. trong đó Internet được coi là một phương tiện truyền tin hiện đại và được ưa chuộng nhất, nó giúp người dùng tin có thể tiếp cận với kho tàng thông tin rộng lớn của thế giới.

Hiện nay, trung tâm Thông tin Thư viện đang tiến hành xây dựng Thư viện điện tử. Do vậy, các dạng tài liệu như: sách, báo, tạp chí…vẫn được người dùng tin quan tâm và sử dụng. Dạng tài liệu luận văn, luận án hiện Trung tâm đã đưa vào phục vụ và nhóm người dùng tin tài liệu này tương đối cao.

Thời gian thu thập thông tin của người dùng tin: Nhu cầu tin của người dùng tin tại thư viện khá lớn. Theo nghiên cứu thì người dùng tin cần từ1đến 4 tiếng trong ngày để nghiên cứu và tìm kiếm thông tin. Tùy theo nhóm, thời gian người dùng tin có thể thu thập thông tin như ở nhóm lãnh đạo, quản lý do công việc bận rộn nên việc thu thập thông tin ít chiếm 85,34% tổng số người dành từ 1đến 2tiếng cho việc tìm kiếm thông tin. Nhóm cán bộ giáo viên có nhiều thời gian dành cho nghiên cứu hơn, thời gian tìm kiến thông tin cũng khá dài, trung bình khoảng từ 2 đến 4 tiếng. Tuy nhiên, theo điều tra họ thường tìm kiếm thông tin tại nhà chứ không lên thư viện. Nhóm người dùng tin là học sinh, sinh viên là người dùng tin chủ yếu và đông đảo nhất của Thư viện. Trong số 925 bạn được hỏi thì 100% đều dành thời gian cho việc tìm kiếm thông tin, trong đó chủ yếu là dành khoảng 2 đến 4 tiếng, đặc biệt tới 20% dành trên 5tiếngcho việc tìm kiếm thông tin.

Nhu cầu thông tin theo ngôn ngữ xuất bản: Theo xu hướng thời đại, việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh trở lên phổ biến hơn. Vì vậy nhu cầu sử dụng các dạng tài liệu tiếng Anh phục vụ học tập, giải trí ngày càng phát triển. Ngoài ra, Thư viện còn cập nhật bổ sung các dạng tài liệu có ngôn ngữ khác như: Trung Quốc, Nhật Bản để phục vụ người dùng tin trong toàn trường.

Nhu cầu thông tin theo lĩnh vực đào tạo: Đại học Công nghiệp Hà Nội là một trường đào tạo đa ngành, đa nghề với gần 120 năm lịch sử, với 14 khoa-viện, 10 trung tâm đào tạo với hơn 30.000 học sinh, sinh viên. Với số lượng đông và nhiều ngành đào tạo khác nhau đã khiến cho nhu cầu tin của người dùng tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện trở nên đa dạng và phong phú. Theo điều tra thu thập được tại thư viện thì ngành được bạn đọc quan tâm nhất là ngành cơ khí, công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật ô tô, tiếng Anh, kế toán.

Thực trạng công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện

Công tác tổ chức nguồn lực thông tin của Trung tâm Thông tin Thư viện: Trong hoạt động Thông tin Thư viện, nguồn lực thông tin đóng vai trò quan trọng, nguồn lực thông tin là cơ sở để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin, làm công cụ tra cứu như thư mục, mục lục và các cơ sở dữ liệu dạng thư mục. Khả năng bao quát nguồn lực thông tin được xử lý là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng một sản phẩm Thông tin Thư viện cho dù sản phẩm đó là ấn phẩm thông tin, các hệ thống tra cứu hay cơ sở dữ liệu.

Nguồn lực thông tin hiện có của Trung tâm:

(i)Cơ cấu vốn tài liệu: hiện nay, nguồn tài liệu của Trung tâm Thông tin Thư viện bao gồm sách, báo, sách tham khảo, chuyên khảo, tài liệu tra cứu, giáo khoa, giáo trình, luận văn, luận án, các loại báo tạp chí trong và ngoài nước, cơ sở dữ liệu và các tài liệu điện tử…Tính đến tháng 7/2017, tổng số vốn tài liệu của trung tâm có gần 8000 đầu sách với 110.000 bản sách; trên 100 tên báo tạp chí. Nội dung tài liệu, thể hiện ở biểu đồ (hình 2).

Thực trạng nhu cầu tin và công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Hình 2. Biểu đồ thống kê tài liệu theo lĩnh vực chuyên môn

Nguồn:tác giả tính toán từ dữ liệu của Thư viện trường ĐHCNHN

Nhìn vào bảng thống kê tài liệu theo lĩnh vực chuyên môn, có thể thấy tài liệu về lĩnh vực chuyên môn cơ khí, điện, điện tử, công nghệ thông tin, khoa học cơ bản (Toán, Lý, Hóa) chiếm tỷ lệ lớn, tài liệu về cơ khí chiếm 15,2 % tài liệu về công nghệ thông tin chiếm 17,9 % tổng số vốn tài liệu…Một số khoa như Ngoại ngữ, Du Lịch, May và Thiết kế thời trang, số lượng sách chuyên ngành còn nhiều hạn chế.

(ii)Tổ chức vốn tài liệu: Với tổng số 110.000 bản sách, tài liệu của Thư viện được phân bổ lưu giữ về các kho nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc phục vụ người dùng tin.

Hoạt động phát triển nguồn tin: Đây là công tác bổ sung vốn tài liệu, là công việc quan trọng có tính chất quyết định đến toàn bộ hoạt động của bất cứ một trung tâm thông tin nào. Tại trung tâm Thông tinThư viện của Trường việc xây dựng, tổ chức và phát triển nguồn lực thông tin chủ yếu dựa vào nhiệm vụ chính là cung cấp tài liệu về các lĩnh vực mà Nhà trường đào tạo. Chất lượng phục vụ bạn đọc của trung tâm phụ thuộc rất nhiều vào việc bổ sung tài liệu và tổ chức kho.

(i)Diện bổ sung: Để nguồn lực thông tin có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu học tập, giảng dạy và nghiên cứu của đội ngũ người dùng tin trong toàn trường, căn cứ vào các lĩnh vực và các chuyên ngành đào tạo của Trường, hàng năm Trung tâm lên kế hoạch bổ sung tài liệu cho phù hợp. Các tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập là: sách giáo trình, sách tham khảo, tài liệu tra cứu và các loại tạp chí chuyên ngành. Các tài liệu phục vụ cho mục đích giải trí và nâng cao đời sống cho bạn đọc là: các sách chính trị xã hội, sách văn học và các loại báo và tạp chí của cơ quan Trung ương xuất bản. Các tài liệu nghiệp vụ thư viện phục vụ cho chính cán bộ thư viện. Ngoài ra,Thư viện đang tiếp tục bổ sung thêm một số nguồn tài liệu số, phục vụ cho công tác xây dựng Thư viện điện tử của Trường.

(ii)Nguồn bổ sung: Trung tâm Thông tin Thư viện của Trường bổ sung tài liệu thông qua hai nguồn là nguồn mua và nguồn biếu tặng. Nguồn mua là nguồn bổ sung chính của trung tâm. Cuối mỗi năm trung tâm lập dự toán kế hoạch bổ sung tài liệu, làm cơ sở để xin kinh phí và căn cứ vào số lượng kinh phí được cấp, nhu cầu đào tạo giữa các ngành đào tạo của Trường để mua tài liệu cho phù hợp. Tài liệu được mua qua các hệ thống nhà xuất bản như: nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật; Thống kê; Chính trị Quốc Gia; Giáo dục, Tài chính…Ngoài ra, Trung tâm còn mua tài liệu từ các trường như: Đại học Bách Khoa, đại học Kinh tế Quốc dân…Trung tâm còn tạo nguồn bổ sung qua giảng viên trong trường có điều kiện mua được các tài liệu mới, đặc biệt là các tài liệu nước ngoài.Bổ sung không mất tiền là nguồn tài liệu lưu chiểu từ các ấn phẩm do Trường xuất bản, từ năm 2010 Trung tâm nhận lưu chiểu các khóa luận, đồ án tốt nghiệp được bảo vệ tại trường. Đối với nguồn biếu tặng, Trung tâm nhận được nguồn tài trợ từ Quỹ Châu Á thông qua Thư viện Quốc Gia Việt Nam. Ngoài ra, Thư viện còn nhận được rất nhiều tài liệu từ các dự án: dự án Jica của chính phủ Nhật Bản; dự án hợp tác với Tập đoàn Hồng Hải - Trung Quốc.

(iii)Kinh phí bổ sung: Bắt đâu từ năm 2010 việc bổ sung tài liều do Thư viện quản lý nên số lượng tài liệu ngày càng tăng và kinh phí chi cho hoạt động này tương đối lớn, có những năm Trường chi gần 1 tỷ VnĐ cho công tác bổ sung tài liệu (bao gồm cả mua cơ sở dữ liệu điện tử).

(iv)Quy trình bổ sung: Khi bổ sung tài liệu, cán bộ thư viện căn cứ vào lĩnh vực đào tạo của trường để lựa chọn tài liệu với các yêu cầu: sát với chương trình học và là những tài liệu mới nhất. Các phòng, khoa, trung tâm lập danh sách tài liệu yêu cầu cần bổ sung sau đó gửi cho Trung tâm Thư viện để cán bộ thư viện tập hợp, thống kê, lên danh sách các tài liệu cần mua. Căn cứ vào kinh phí được cấp, Trung tâm sẽ tiến hành mua tài liệu thích hợp nhất với nhu cầu của người dùng tin và phù hợp với diện bổ sung tài liệu của Trung tâm.

Hoạt động chia sẻ nguồn lực thông tin: Trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, vấn đề chia sẻ nguồn lực thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện còn nhiều hạn chế. Là một thành viên của Hội liên hiệp Thư viện phía Bắc, trung tâm có nhiều thuận lợi trong việc trao đổi thông tin giữa các thư viện miền Bắc nhưng còn hạn chế với các thư viện trên toàn lãnh thổ Việt Nam.Phầm mềm Libol 6.0 với phân hệ ILL: Quản lý giao dịch trao đổi tư liệu với các Thư viện khác theo chuẩn quốc tế dưới các vai trò là thư viện cho mượn và thư viện yêu cầu mượn. Cho phép các bạn đọc của thư viện này có thể mượn sách tại các thư viện khác. Đây là một phần mềm rất hữu ích đối với Thư viện trong việc thực hiện các hoạt động liên Thư viện trong thời gian tới.

Sản phẩm và dịch vụ Thông tin - Thư viện của Trung tâm

Các loại hình sản phẩm Thông tin - Thư viện

(i)Danh mục tra cứu tài liệu: Được trung tâm xây dựng giúp bạn đọc tra tìm tài liệu một cách nhanh chóng, danh mục cung cấp bạn đọc những thông tin cơ bản về tài liệu như đăng ký cá biệt, tài liệu xếp giá năm xuất bản…để bạn đọc lựa chọn và yêu cầu mượn. Tuy nhiên, danh mục tài liệu không tóm tắt nội dung tài liệu như việc bạn đọc tra cứu tài liệu thông qua cơ sở dữ liệu.

(ii)Cơ sở dữ liệu: Từ cuối năm 2009 Trung tâm đã tiến hành cài đặt phầm mềm Libol 6.0 của Công ty cổ phần truyền thông Tinh Vân. Đặc điểm của phần mềm là chuẩn hóa, tuân thủ các quy trình nghiệp vụ, khả năng tùy biến cao. Ưu điểm nổi bật của phần mền này là cho phép thư viện quản lý các dạng tài liệu số phổ biến (âm thanh, hình ảnh, text…) cung cấp tài liệu số tới mọi đối tượng người dùng, đồng thời các thư viện có thể thực hiện mua bán, trao đổi và cung cấp tài liệu điện tử một cách dễ dàng.

(iii)Các phân hệ chức năng chính đó là: Phân hệ tra cứu trực tuyến OPAC đây là cổng thông tin dành cho mọi đối tượng để khai thác tài nguyên và dịch vụ thư viện; Phân hệ bổ sung là quy trình quản lý ấn phẩm chặt chẽ và xuyên suốt kể từ lúc phát sinh nhu cầu bổ sung tới lưu kho và đưa ra khai thác; Phân hệ biên mục là công cụ mạnh, thuận tiện và mềm dẻo giúp biên mục mọi dạng tài nguyên thư viện theo các tiêu chuẩn thư mục quốc tế; Phân hệ ấn phẩm định kỳ là tự động hóa và tối ưu hóa các nghiệp vụ quản lý đặc thù cho mọi dạng ấn phẩm định kỳ (báo, tạp chí, tập san…); Phân hệ bạn đọc là quản lý thông tin cá nhân và phân loại bạn đọc giúp thư viện áp dụng được những chính sách phù hợp với mỗi nhóm bạn đọc; Phân hệ lưu thông là tự động hóa những thao tác thủ công lặp đi lặp lại trong quá trình mượn trả và tự động tính toán, áp dụng mọi chính sách lưu thông do thư viện thiết đặt.; Phân hệ sưu tập số là theo dõi và xử lý các yêu cầu đặt mua tài liệu điện tử qua mạng, quản lý kho tư liệu số hóa; Phân hệ mượn liên thư viện là quản lý những giao dịch trao đổi với các thư viện khác theo chuẩn quốc tế dưới các vai trò là thư viện cho mượn và thư viện yêu cầu mượn; Phân hệ quản lý là quản lý và phân quyền người dùng và theo dõi toàn bộ hoạt động của hệ thống.

Dịch vụ Thông tin - Thư viện

(i)Dịch vụ cho mượn tài liệu: Trung tâm Thông tinThư viện có hai hình thức cho mượn tài liệu là mượn đọc tại chỗ và cho mượn về nhà.

(ii)Dịch vụ đọc tại chỗ:là hình thức phục vụ truyền thống trong trung tâm. Việc tạo ra chỗ ngồi để bạn đọc sử dụng đọc tại chỗ là vấn đề được ưu tiêndo đọc tại chỗ là yêu cầu không thể thiếu đối với người dùng tin. Dịch vụ này đáp ứng nhu cầu tra cứu tài liệu, tìm các thông tin ngắn gọn như dữ kiện, số liệu hoặc tra cứu các thuật ngữ, đọc báo, tạp chí…Dịch vụ đọc tại chỗ ở Trung tâm được tiến hành trong các phòng: Phòng đọc tại chỗ, Phòng ngoại văn; Phòng mở - tự chọn; Phòng đọc điện tử; Phòng báo- tạp chí.

(iii)Dịch vụ mượn về nhà:cho phép người dùng tin mang tài liệu về nhà sử dụng trong một thời hạn nhất định. Các tài liệu mượn về nhà chủ yếu là giáo trình, đề cương bài giảng của tất cả các môn học trong chương trình giảng dạy của Nhà trường và có quy định như sau:

(iv)Đối với cán bộ giáo viên:được mượn tài liệu tham khảo mỗi lần không quá 5 đơn vị tài liệu và giữ trong sổ mượn không quá 10 đơn vị tài liệu. Thời gian mượn tối đa là 1 tháng, với những tài liệu dùng làm giáo trình giảng dạy thì được mượn trong suốt quá trình giảng dạy môn học đó.

(v)Đối với sinh viên, học sinh: được mượn mỗi lần 2 đơn vị tài liệu và giữ trong sổ không quá 6 đơn vị tài liệu, thời gian giữ không quá 2 tuần. Đối với tài liệu là giáo trình môn học thì được mượn trong suốt quá trình học môn đó và khi trả hết tài liệu của phần môn học đã kết thúc thì mới được mượn cho học phần học môn sau. Dịch vụ cho mượn về nhà tạo điều kiện cho bạn đọc chủ động về thời gian, địa điểm nghiên cứu tài liệu. Chính vì vậy, hoạt động này đang giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động thông tin thư viện của Trung tâm.

(vi)Dịch vụ sao chụp tài liệu: cung cấp tài liệu gốc cho người dùng tin trong trương hợp họ muốn có tài liệu để sử dụng lâu dài hoặc tài liệu đó không được phép mang về nhà

(vii)Dịch vụ trao đổi Thông tin: những năm qua Trung tâm đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác với một số cơ quan tổ chức trong nước như: tham gia Hội liên hiệp Thư viện các trường Đại học khu vực phía Bắc, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện các trường Đại học có cùng chuyên ngành…Vì vậy, Trung tâm cũng chú ý phát triển loại hình dịch vụ trao đổi thông tin song nhìn chung số lượng các buổi hội thảo còn rất hạn chế.

(viii)Dịch vụ học nhóm: Trung tâm có 12 phòng học nhóm, cung cấp cho sinh viên có nhu cầu sử dụng loại hình này. Phòng được trang bị đầy đủ bàn, ghế, bảng, bút viết…Tuy công suất sử dụng chưa nhiều nhưng dịch vụ này cũng đã đáp ứng một bộ phận người dùng tin có nhu cầu học và nghiên cứu nhóm.

Đánh giá về hoạt động Thông tin -Thư viện

Điểm mạnh

Về nguồn lực thông tin: Trung tâm đã xây dựng được nguồn lực thông tin phong phú về các lĩnh vực Khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội, chính trị - văn hóa. Nguồn thông tin truyền thống ngày càng được mở rộng, khối lượng tài liệu tương đối lớn, đảm bảo đáp ứng nhu cầu dạy và học của cán bộ, giảng viên và học sinh, sinh viên trong toàn trường. Nguồn lực thông tin của trung tâm được bạn đọc đánh giá cao về nội dung, đa dạng về hình thức và có tính cập nhật cao.

Đánh giá về nguồn lực Thông tin- Thư viện được thể hiện qua bảng khảo sát thực tế sau:

Thực trạng nhu cầu tin và công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Thực trạng nhu cầu tin và công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin Thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Hình 3. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ đánh giá nguồn lực thông tin tại Trung tâm của người dùng tin

Nguồn: Khảo sát thực tế của nhóm tác giả

Những cố gắng của Trung tâm trong việc bổ sung và cập nhật nguồn tài liệu trong thời gian qua đã được bạn đọc trong toàn trường đánh giá cao. Có tới 28% bạn đọc đánh giá Trung tâm đã đáp ứng tốt nhu cầu tin của họ, 42% bạn đọc cho rằng nguồn thông tin của Trung tâm đáp ứng được phần nào nhu cầu tin của họ. Còn lại 30% bạn đọc chưa thỏa mãn với sự đáp ứng của Trung tâm.

Về cơ sở vật chất: Trung tâm đã trang bị một cơ sở hạ tầng rộng rãi, khang trang thoáng mát, một hệ thống cơ sở vật chất được đầu tư mới và hiện đại

Về nguồn nhân lực: Trung tâm hiện có 26 cán bộ, được tuyển dụng và tuyển chọn thông qua sự kết hợp giữa nhà trường và trung tâm. Nguồn nhân lực tuyển thông qua các tiêu chí về trình độ chuyên môn và năng lực. Trong quá trình làm việc, trung tâm còn liên tục tổ chức các buổi học tập nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để tạo đà cho sự phát triển của trung tâm trong tương lai.

Về hướng dẫn , đào tạo người dùng tin: công tác này được Trung tâm thực hiện thường xuyên. Chương trình, tài liệu hướng dẫn sử dụng và khai thác thông tin tại Trung tâm được nhà trường xét duyệt và chính thức đưa vào thực hiện từ năm học 2005-2006.

Điểm yếu

Về nguồn lực thông tin: mặc dù Trung tâm có nhiều nỗ lực trong việc bổ sung vốn tài liệu song chưa đảm bảo phục vụ tối đa nhu cầu của người dùng tin. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì vấn đề cập nhật thông tin của tài liệu còn chưa kịp thời. Lựa chọn nguồn tài liệu bổ sung vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều tài liệu vẫn chưa thực sự sát với chương trình học, vẫn còn có hiện tượng: có tên sách rất cần cho bạn đọc thì số lượng ít trong khi có sách nhu cầu đọc không nhiều thì lại bổ sung số lượng quá nhiều. Điều này đã làm hạn chế hứng thú đọc của người dùng tin.

Nguồn tài liệu điện tử hiện nay đã bổ sung và đưa vào phục vụ, tuy nhiên do ngân sách bổ sung hạn chế nên số lượng bổ sung chưa nhiều và chỉ tập trung vào một số ngành thiết yếu. Nguồn tin này sẽ phục vụ được một phần nhu cầu của bạn đọc, tuy nhiên không thể thỏa mãn được người dùng tin toàn trường khi mà trung tâm đang hướng người dùng tin tới một trình độ mới: Thư viện điện tử, người dùng tin điện tử.

Về người dùng tin: với số lượng người dùng tin đông đảo như hiện nay việc đáp ứng tốt nhu cầu tin là việc làm tương đối khó. Hơn nữa, Trung tâm còn phải thỏa mãn nhu cầu của không chỉ cán bộ, giảng viên mà của cả các hệ đào tạo học sinh, sinh viên của trường. Ý thức nhận thức của mỗi hệ đào tạo lại khác nhau. Vì thế, không phải học sinh, sinh viên nào đến thư viện cũng hiểu được thư viện và quý trọng thư viện. Việc tiếp cận công nghệ thông tin trong việc tìm tin của sinh viên cũng tương đối khó khăn. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động trung tâm đã có những biện pháp hướng dẫn, giúp đỡ cách tìm tin sao cho dễ hiểu, khoa học nhất để các bạn đọc đến với thư viện đều dễ dàng trong việc tìm tin và tra cứu thông tin.

Bộ máy tra cứu tìm tin: tại Trung tâm, bạn đọc chủ yếu tìm tin dưới 2 hình thức: thông qua cơ sở dữ liệu và thông qua danh mục tài liệu. Tuy nhiên, cả hai hình thức này vẫn chưa đáp ứng được mong muốn của người sử dụng. Với danh mục sách, một quyển chỉ một bạn đọc sử dụng, thởi gian tra cứu lâu, mất thời gian, trong quá trình sử dụng có thể bị mất trang, rách…sách được bổ sung trong kho có thể chưa được bổ sung trong danh mục dẫn đến tình trạng để sách “ chết” trong kho một thời gian làm ảnh hưởng đến nhu cầu đọc của người dùng tin cũng như giá trị thời sự của tài liệu đó.

Với cơ sở dữ liệu, bạn đọc có thể tìm kiếm thông tin nhanh, hiệu quả. Phần mền libol 6.0 với modul bạn đọc khá thân thiện với người dùng tin, đây là giao diện thông minh và thỏa mãn nhu cầu tìm tin của hầu hết người dùng tin. Tuy nhiên, do hạn chế về số máy tra cứu nên thường xuyên máy tra cứu trong tình trạng quá tải, vị trí tra cứu lộn xộn, ồn ào gây mất trật tự thư viện.

Sản phẩm dịch vụ Thông tin - Thư viện: Hiện nay, mặc dù Trung tâm đã rất cố gắng trong việc đưa ra các hình thức dịch vụ mới, phục vụ nhu cầu đa dạng của người dùng tin trong toàn trường, song công tác này triển khai còn chưa hiệu quả, còn nhiều sản phẩm dịch vụ còn thiếu và yếu. Thông tin tóm tắt, tổng luận, dịch tài liệu, dịch vụ tư vấn và những sản phẩm dịch vụ thông tin thư viện có giá trị gia tăng cao rất hữu ích với người làm công tác quản lý và nghiên cứu khoa học nhưng hiện nay công việc này chưa được triển khai thực hiện.

Dịch vụ in ấn, sao chép, dịch vụ học nhóm…mặc dù đã thực hiện song chất lượng chưa cao nên chưa thu hút người dùng tin đến sử dụng.

Trung tâm vẫn khó thoát khỏi vỏ bọc truyền thống lâu đời do chậm đổi mới. Vì vậy, dịch vụ thông tin - thư viện tại trung tâm còn rất nghèo nàn

Chia sẻ nguồn lực thông tin: trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, vấn đề chia sẻ nguồn lực thông tin tại trung tâm thư viện còn nhiều hạn chế. Là thành viên của Hội Liên hiệp Thư viện Phía bắc trung tâm có nhiều thuận lợi trong việc trao đổi thông tin giữa các Thư viện miền Bắc nhưng còn hạn chế với các Thư viện trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Qua khảo sát tình hình thực tế tại Trung tâm cho thấy, mặc dù Trung tâm đã có rất nhiều cố gắng và cũng đã đạt được kết quả đáng kích lệ, song công tác tìm và tạo lập nguồn lực thông tin vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, để chuẩn bị cho việc vận hành và khai thác thư viện điện tử trong thời gian tới, Trung tâm cần phải phát huy hơn nữa, đồng thời có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm trong thời gian tới.

5. KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác đảm bảo thông tin tại Trung tâm Thông tin - Thư viện,tác giả khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển, tăng cường hoạt động Thông tin -Thư viện, thỏa mãn nhu cầu thông tin tư liệu của thầy và trò trường Đại học Công nghiệp Hà Nội như sau:

Thứ nhất, phát triển và đa dạng hóa nguồn tài nguyên: (i)Hình thành chính sách phát triển bộ sưu tập, chính sách này đóng vai trò tiên quyết trong việc xây dựng nguồn tài liệu và hiệu quả sử dụng tài liệu của TV.(ii)Phát triển có chọn lọc nhiều loại hình tài liệu mới nhằm đa dạng hóa nguồn tài liệu. (iii)Thăm dò ý kiến giảng viên, sinh viên nhằm bổ sung tài liệu phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy và học. (iv)Phân bổ hợp lý nguồn ngân sách. (v)Đánh giá tính hiệu quả của nguồn tài liệu sau một thời gian sử dụng.

Thứ hai, chia sẻ nguồn thông tin: Hầu hết các Thư viện đều biết được tầm quan trọng của việc chia sẻ thông tin, nhưng còn rất nhiều khó khăn để thực hiện được biện pháp này bởi: Khác biệt về công nghệ, Chênh lệch công nghệ, Chi phí cho công nghệ, thiếu tính liên kết giữa các đơn vị, chênh lệch trình độ. Những khó khăn trên gợi mở cho các đơn vị thấy được những giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề. Một khi đã tháo gỡ được những rào cản nói trên, việc chia sẻ thông tin càng được thúc đẩy, dẫn đến chất lượng dịch vụ Thông tin - Thư viện càng được nâng cao.

Thứ ba, trang bị hạ tầng công nghệ thông tin bền vững: Công nghệ thông tin là một trong những nhân tố cần thiết thúc đẩy dịch vụ Thông tin - Thư viện phát triển. Thực hiện giải pháp này cần lưu ý một số yếu tố đó là: Tính ổn định và thích nghi của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bảo trì tốt thiết bị công nghệ thông tin, tiếp cận công nghệ mới, nguồn tài chính vững chắc, tập huấn cho nhân viên về các ứng dụng của công nghệ thông tin.

Thứ tư, đa dạng hóa và đẩy mạnh quảng bá các dịch vụ Thông tin - Thư viện: Nếu nguồn tài nguyên là món ăn tinh thần thì dịch vụ Thông tin -Thư viện chính là cách thức phục vụ món ăn ấy đến bạn đọc. Muốn đa dạng hóa các dịch vụ Thông tin - Thư viện, thư viện cần lưu ý các yếu tố sau: Ngoài việc phát triển và đa dạng hóa nguồn tài nguyên và chia sẻ thông tin thì có thêm dịch vụ là đa dạng hóa nguồn tin và chia sẻ nguồn tin, sáng tạo các loại hình dịch vụ mới, chuyên môn nghiệp vụ tốt và sự hỗ trợ của công nghệ thông tin.Quảng bá dịch vụ Thông tin - Thư viện là để giúp bạn đọc hiểu rõ thêm về dịch vụ Thông tin - Thư viện và cách tiếp cận các dịch vụ đó. Thư viện cần chú trọng đến các yếu tố sau trong việc quảng bá dịch vụ: Quan hệ công chúng hơn là quảng cáo thuần túy: Thư viện cần tổ chức các hoạt động như câu lạc bộ bạn đọc, triển lãm các sảm phẩm thông tin lạ mắt do bạn đọc đóng góp, hoặc tổ chức trưng bày/ giới thiệu sách theo chủ đề/nhân vật; Đẩy mạnh công tác liên lạc đến với bạn đọc hoặc nhóm bạn đọc.

Thứ năm, đào tạo nhân lực: Đây là vấn đề trọng tâm của mọi tổ chức. Đào tạo nguồn nhân lực đều liên quan đến các giải pháp trên. Một số điểm cần chú trọng khi thực hiện giải pháp này đó là:(i) Đề ra chiến lược phát triển chuyên môn liên tục phù hợp và bảo đảm luôn được thực hiện như: hội thảo, hội nghị; thăm quan thực tiễn; khóa học ngắn hạn hoặc dài hạn; học tập ở nơi làm việc; nghiên cứu tài liệu; các buổi nói chuyện, trao đổi theo chủ đề chuyên môn.(ii)Chọn phương pháp đào tạo phù hợp như: tự đào tạo; đào tạo tại chức; đào tạo trực tuyến. Tìm kiếm các cơ hội đào tạo như học bổng và cử nhân viên đi đào tạo.(iii)Tạo điều kiện cho những nhân viên muốn học thêm để nâng cao trình độ. Khuyến khích tinh thần tự học của nhân viên. Tạo động lực cho nhân viên trong công việc cũng như trong đào tạo.

6. KẾT LUẬN

Gắn liền với sự phát triển của Nhà trường, Trung tâm Thông tin - Thư viện trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đến nay đã có những bước tiến đáng kể. Luôn được đánh giá là một đơn vị tiên tiến, trong những năm qua Trung tâm đã và đang xây dựng dự án Thư viện điện tử và đang từng bước hoàn thiện dự án đó. Tuy nhiên để thực sự trở thành Thư viện điện tử về cả hình thức và chất lượng Trung tâm cần nỗ lực rất nhiều để đảm bảo nguồn tin cho người dùng tin.

Đảm bảo thông tin cho người dùng tin tại Trung tâm đòi hỏi hoạt động thông tin phải có sự chuyển biến căn bản về chất. Muốn vậy phải thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng và sức mạnh của thông tin, phục vụ công tác quản lý, nghiên cứu, giảng dạy và học tập của cán bộ, giảng viên, học sinh, sinh viên trong trường./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1].Đặng Quang Hiệp, (2006), Tăng cường hoạt động Thông tin Thư viện Trường Đại học Hàng Hải trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ khoa học Thư viện, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn.

[2]. Đỗ Thị Thanh Lương, (2007), Nghiên cứu nhu cầu tin và đảm bảo thông tin cho người dùng tin tại Trung tâm Thư viện, Đại học Công nghiệp Hà Nội, khóa luận tốt nghiệp Thông tin Thư viện, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

[3].Hà Thị Huệ, (2005), Tăng cường nguồn lực thông tin tại Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Khoa học Thư viện, Hà Nội.

[4]. Hoàng Thị Thu Hương (2005), Nghiên cứu nhu cầu tin và giải pháp đảm bảo thông tin tại Trung tâm tin học Bộ thuỷ sản, Luận văn thạc sỹ Khoa học Thư viện, Đại học Văn hoá Hà Nội

[5]. Nguyễn Thị Phương Nhung, (2003), Nghiên cứu nhu cầu hứng thú đọc tài liệu của bạn đọc tại Thư viện Trung ương Quân đội, luận văn thạc sỹ Khoa học Thư viện, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

[6].Nguyễn Thị Thanh Thủy, (2017), Thực trạng và giải pháp phát triển văn hóa đọc của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, Tạp chí Khoa học Công nghệ, (số 38), tr. 147 - 151.

[7].Trần Mạnh Tuấn, (1998), Sản phẩm và dịch vụ Thông tin - Thư viện; giáo trình, trung tâm Thông tin tư liệu khoa học và công nghệ Quốc gia, Hà Nội.

[8].Trường ĐHCNHN, (2008), Dự án xây dựng Thư viện điện tử Trường ĐHCNHN.

[9].https://www.haui.edu.vn ( Trang Web Trường ĐHCNHN)

[10].https://vietnamlibrary.org

Bài viết đã được đăng trên tạp chí khoa học công nghệ số 46 tháng 6/2018. Trường ĐHCNHN