Từ Đại học số đến hệ sinh thái “ba nhà”: Tư duy kiến tạo nghiên cứu khoa học tại Đại học Công nghiệp Hà Nội
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, nghiên cứu khoa học không chỉ dừng lại ở các chỉ số học thuật mà phải trở thành động lực cốt lõi để đổi mới chất lượng nguồn nhân lực. Tại Tọa đàm “Phát triển nghiên cứu khoa học trong các trường đại học: Động lực nâng cao chất lượng đào tạo” do Tạp chí Công Thương tổ chức, những phân tích của PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng - Trưởng Phòng Khoa học Công nghệ, Đại học Công nghiệp Hà Nội đã phác thảo một lộ trình bài bản, bắt đầu từ việc đổi mới tư duy quản trị nội bộ để "cởi trói" cho nhà khoa học, tiến tới xác lập niềm tin trong mối liên kết Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp.

Tọa đàm “Phát triển nghiên cứu khoa học trong các trường đại học: Động lực nâng cao chất lượng đào tạo”
Một điểm nhấn ấn tượng trong tư duy quản trị tại Đại học Công nghiệp Hà Nội được PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng chia sẻ là sự chuyển đổi mô hình quản trị sang định hướng đại học số từ rất sớm, ngay từ giai đoạn 2013-2014. Đây là bước đi chiến lược nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa quỹ thời gian dành cho giảng dạy và nghiên cứu. Thực tế, áp lực thủ tục hành chính thường làm phân tán nguồn lực của giảng viên. Bằng việc thực hiện toàn bộ công việc hành chính trên nền tảng điện tử, Nhà trường đã giảm tải tối đa các đầu việc sự vụ, giúp giảng viên tập trung nghiên cứu, tìm hiểu thị trường và phát triển sản phẩm gắn với doanh nghiệp.
Hiệu quả của tư duy quản trị này được thể hiện rõ nét qua những con số biết nói trong năm học 2024-2025. Với quy mô nhân sự lớn gồm gần 1.500 viên chức, người lao động và trên 35.000 người học, Đại học Công nghiệp Hà Nội đã thiết lập cơ chế tài chính mạnh mẽ để thúc đẩy năng suất khoa học. Cụ thể, Nhà trường đã chi xấp xỉ 13 tỷ đồng/1 năm để khen thưởng cho các công trình công bố khoa học xuất sắc của giảng viên. Đối với sinh viên, tổng kinh phí chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong năm đạt mức trên 5 tỷ đồng.
Sự đầu tư quyết liệt này đã mang lại những thành quả được định lượng cụ thể. Trong năm học 2024-2025, Đại học Công nghiệp Hà Nội ghi nhận trên 1.500 công bố khoa học. Về các nhiệm vụ khoa học công nghệ, Nhà trường có 04 nhiệm vụ cấp Quốc gia được phê duyệt, 20 nhiệm vụ cấp Bộ và tương đương được ký mới hoặc chuyển tiếp. Đặc biệt, hoạt động sở hữu trí tuệ có bước tiến lớn với 14 sáng chế và giải pháp hữu ích đã được chấp nhận đơn hoặc cấp bằng. Những dữ liệu này phản ánh vị thế của một cơ sở đào tạo điển hình, dẫn đầu trong khối các trường thuộc Bộ Công Thương.

PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng - Trưởng Phòng Khoa học Công nghệ, Đại học Công nghiệp Hà Nội
Từ góc độ học thuật, PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng khẳng định nghiên cứu khoa học tác động biện chứng đến chất lượng đào tạo. Tham gia nghiên cứu buộc người thầy phải tiếp cận tri thức mới, qua đó cập nhật nội dung và đổi mới phương pháp giảng dạy. Song song với đó, hoạt động này kiến tạo môi trường học tập tiên tiến. Người học chuyển từ thụ động sang trở thành lực lượng hỗ trợ quan trọng trong các nhóm nghiên cứu, tiếp cận trực tiếp với các mảng kiến thức mới. Quá trình này giúp sinh viên phát triển tư duy hệ thống và kỹ năng giải quyết vấn đề thực tiễn – những năng lực thiết yếu mà thị trường lao động đang tìm kiếm.
Tại Đại học Công nghiệp Hà Nội, việc áp dụng chuẩn đầu ra theo hướng tiếp cận CDIO từ sớm đã cho phép doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình xây dựng và điều chỉnh chương trình đào tạo. Chu kỳ điều chỉnh diễn ra định kỳ mỗi 2,5 năm, nhờ đó, các nội dung giảng dạy luôn bám sát sự thay đổi của công nghệ số và yêu cầu đổi mới sáng tạo từ thực tế.
PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng cũng thẳng thắn chỉ ra các rào cản hiện hữu trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Khó khăn lớn nhất nằm ở sự tin tưởng chưa thực sự sâu sắc giữa Nhà trường và doanh nghiệp. Trưởng phòng Khoa học Công nghệ HaUI cho rằng phần lớn các nghiên cứu hiện nay vẫn mang nặng tính hàn lâm, chưa thực sự xuất phát từ "đơn đặt hàng" của doanh nghiệp. Mức độ sẵn sàng của công nghệ (Technology Readiness Level - TRL) tại Việt Nam thường chỉ dừng ở mức 4 hoặc 5 (mức độ phòng thí nghiệm), trong khi thị trường và doanh nghiệp đòi hỏi sản phẩm hoàn thiện ở mức 8 hoặc 9 để thương mại hóa ngay.
Để giải quyết bài toán này, PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng đề xuất thúc đẩy mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ (Spin-off) ngay trong các trường đại học. Tuy nhiên, hành lang pháp lý cho mô hình này hiện vẫn thiếu các hướng dẫn cụ thể để giảm thiểu rủi ro pháp lý và tạo đà phát triển. Nếu được tháo gỡ, các Spin-off sẽ trở thành cầu nối đưa sản phẩm từ phòng thí nghiệm ra thị trường nhanh hơn, tạo dư địa phát triển lớn cho xã hội.
Hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số từ năm 2026 – điều mà các mô hình tăng trưởng truyền thống khó đáp ứng được – PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng nhấn mạnh vai trò tiên quyết của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng đưa ra 2 kiến nghị chiến lược. Thứ nhất, cần sự hỗ trợ nguồn lực từ Bộ chủ quản để nâng cao năng lực hạ tầng số cho các cơ sở giáo dục chưa tự chủ, bởi con người và tư duy số quyết định khả năng vận hành hệ thống. Thứ hai, cần phát huy vai trò của kênh ngoại giao. Các tham tán thương mại và đại sứ quán tại nước ngoài cần trở thành cầu nối đưa công nghệ nguồn và các mô hình hợp tác quốc tế về Việt Nam, hỗ trợ các đại học và doanh nghiệp trong nước hội nhập sâu rộng.
Những chia sẻ của PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng tại tọa đàm mang đến góc nhìn thực tiễn và sắc sảo về vai trò của nghiên cứu khoa học. Đây là câu chuyện về đổi mới tư duy quản trị và nỗ lực xây dựng hệ sinh thái bền vững giữa "Ba nhà": Nhà nước, Nhà trường và Doanh nghiệp. Khi các điểm nghẽn về cơ chế và niềm tin được khơi thông, khoa học công nghệ sẽ thực sự trở thành động lực đưa nền kinh tế và chất lượng giáo dục đại học bứt phá.
Video Toạ đàm Phát triển nghiên cứu khoa học trong các trường đại học: động lực nâng cao chất lượng đào tạo
Thứ Ba, 07:56 09/12/2025
Bản quyền thuộc về Đại học Công nghiệp Hà Nội - HaUI